Ngày D (6 tháng 6 năm 1944) Nhiệm vụ Boston

Trinh sát dù

Vị trí các Bãi Thả quân và vị trí đáp thực của Sư đoàn Không vận 82 trong Ngày D

Nhóm Serial đầu tiên chở theo các đội Trinh sát dù cẩ cánh lúc 10:40 tối ngày 5 tháng 6 năm 1944 tại Anh. Trục tiếp cận của các máy bay nằm trên trục Tây Nam-Đông Bắc và các phi đội đã thực hiện một đợt bay vòng qua quần đảo Channel để đi đúng quỹ đạo. Khi tiếp cận Bán đảo Cotentin, các phi công của C-47 phải đối mặt với một khối mây đặc và sương mù dày trên mặt đất, khiến ảnh quan ở Normandie bị che khuất một phần và khiến công việc định hướng trở nên khó khăn.[9]

Các nhóm Trinh sát dù cũng gặp nhiều bất lợi không kém trong quá trình nhảy dù, mặc dù các nhóm trinh sát của Sư đoàn Không vận 82 gặp nhiều thuận lợi hơn. Ba đội trinh sát dù của Trung đoàn 505, làm nhiệm vụ đánh dấu DZ O, đã được thả chính xác và nhanh chóng tiến hành hoạt động phát tín hiệu. Các đội trinh sát của Trung đoàn 507 gặp ít may mắn hơn: quân Đức, sau khi được cảnh báo bởi các đợt nhảy dù đầu tiên của Sư đoàn Không vận 101, đã tuần tra gắt gao tại khu vực Château Gris gần Amfreville, khiến lính trinh sát dù không thể kích hoạt hệ thống đèn báo hiệu. Trong số ba nhóm kích hoạt được máy phát Eureka, chỉ có duy nhất nhóm số 2, chỉ huy bởi Trung úy Charles Ames, đánh đấu đèn hiệu thành công một phần của DZ T. Các nhóm trinh sát của Trung đoàn 508 cũng gặp nhiều trở ngại khi phải đối mặt với sự hiện diện của đông đảo lính Đức tại DZ N.[10]

Bãi Thả quân O (DZ O)

118 máy bay C-47, chở theo Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 505 của Đại tá William E. Ekman, cùng ban tham mưu sư đoàn, một nhóm nhỏ thuộc Tiểu đoàn Công binh 307, Tiểu đoàn Pháo Dã chiến Nhảy dù 456, cùng với hai khẩu lựu pháo, tiếp cận Bán đảo Cotentin lúc 01:15.[11] Do tiếp cận từ độ cao lớn, các phi công đã phải thực hiện vài đợt bay vòng để phân biệt đèn hiệu đánh dấu bãi thả quân và đèn từ các thị trấn lân cận. Sau khi hạ độ cao, phi công bắt đầu bật đèn xanh và lính dù bắt đầu đổ bộ. Tuy nhiên, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 505 bị thả ở vị trí cao hơn độ cao khuyến cáo, khiến lính dù bị phân tán nhẹ.[12]

Cuộc đổ bộ ở DZ O bắt đầu lúc 01:51. Với tất cả đèn hiệu được Trinh sát dù kích hoạt, toàn bộ 118 Stick được thả một cách chính xác và Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 505 là đơn vị cấp trung đoàn có tỉ lệ thả quân chính xác nhất trong toàn bộ sáu trung đoàn nhảy dù của Mỹ tham gia đổ bộ vào Normandie trong ngày 5-6 tháng 6. 60 Stick (chiếm hơn 50% quân số trung đoàn) đã đáp xuống đúng mục tiêu hoặc trong bán kính một km tính từ tâm của khu vực thả, và 20 Stick được thả trong bán kính hai km xung quanh DZ. Hơn 75% quân số của Trung đoàn 505 có mặt tại các điểm tập kết, ngoại trừ ba Stick khác bị thả lệch vị trí đáp 14 dặm về phía nam DZ O.[12]

Lính dù thuộc Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 505, Sư đoàn Không vận 82 tại Sainte-Mère-Église

Thiếu tá Frederick C.A. Kellam, chỉ huy Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 505, đã dẫn người của ông di chuyển về chiếm cầu Chef-du-Pont và cầu La Fière trên sông Merderet và cho một đại đội của tiểu đoàn ông (Đại đội A của Trung úy John Dolan) chiếm giữ con đường đắp cao băng đi qua khu vực đầm lầy đến Cauquigny. Trung tá Benjamin H. Vandervoort, chỉ huy Tiểu đoàn 2, bị dập mắt cá chân trái do tiếp đất mạnh. Sau khi được một lính quân y siết chặt đôi ủng để cố định vết thương, Vandervoort trực tiếp dẫn đầu đơn vị di chuyển về Neuville-au-Plain, cách Sainte-Mère-Église hai km về phía đông bắc. Tiểu đoàn 3 của Trung tá Edward C. Krause, sau khi tiếp đất thành công lúc 02:03 và tập hợp được khoảng 180 lính từ Tiểu đoàn 3, đã tiến về khu vực phía nam Sainte-Mère-Église.[13]

Trước khi cuộc đổ bộ tại DZ O diễn ra, tại thị trấn Sainte-Mère-Église đã xảy ra một đám cháy lớn tại ngôi nhà của bà Jeanne Pommier vào khoảng 23:00 đêm ngày 5 tháng 6. Khi máy bay C-47 bay vào khu vực, đám cháy đang được lính Đức và người dân địa phương tham gia dập lửa. Vài phi công Mỹ đã dùng ngọn lửa lớn này để định vị khu vực thả quân trong đêm. Lúc 01:50, một nhóm lính dù thuộc Đại đội F, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 505 bị thả lệch vào trong thị trấn. Lính Đức đang có mặt trong thị trấn, vốn đã được báo động trước đó 20 phút sau khi có thông báo về cuộc đổ bộ của các nhóm lính dù thuộc Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 506, Sư đoàn Không vận 101 ở gần đó, đã nổ súng vào những lính dù đang hạ cánh xuống thị trấn. Một trận đấu súng ác liệt diễn ra giữa lính Đức dưới mặt đất và lính dù Mỹ lơ lửng trên không. 12 lính dù thuộc Đại đội F tử trận, bị thương và bị bắt làm tù binh sau khi được đáp xuống thị trấn. Binh nhất Charles P. Blankenship bị chết cháy sau khi hạ cánh xuống ngôi nhà đang cháy của bà Pommier.[14] Binh nhì John Steele và Binh nhì Kenneth Russell hạ cánh xuống tháp chuông của nhà thờ thị trấn và mắc kẹt trên đó. Russell may mắn cắt được dù và nấp trên mái nhà thờ, nhưng Steele, bị thương ở chân vì trúng đạn khi đang nhảy dù và bị treo lơ lửng trên tháp, đã giả chết nhiều giờ để tránh bị lính Đức phát hiện. Steele sau đó được lính Đức đưa xuống và bắt làm tù binh sau khi họ phát hiện ra anh còn sống. Steele, lợi dụng sơ hở của lính Đức, đã trốn thoát và quay trở lại thị trấn cùng đơn vị hai tiếng sau đó.[15]

Tiểu đoàn 3 của Trung tá Edward C. Krause tiến công vào thị trấn Sainte-Mère-Église một cách nhanh chóng lúc 04:00 sau khi nhận được tin từ một người dân Pháp rằng phần lớn quân Đức đã bỏ chạy khỏi thị trấn vì lo sợ một cuộc không kích của Không quân Đồng Minh. Krause dẫn đầu đơn vị tiến vào trung tâm thị trấn và cho dựng cờ tại tòa thị chính. Ông sau đó tự tay phá cổng trại Cherbourg-Carentan, nơi đồn trú của các đơn vị phòng không Đức. Lính Đức bị đánh úp bất ngờ đến mức lính dù Mỹ không gặp nhiều sự phản kháng đáng kể. Khoảng 30 người bị bắt làm tù binh, một số bị bắt khi vẫn còn ngủ trên giường, 10 lính Đức bị bắn chết khi đang chống cự và một số chạy thoát được về phía nam. Lúc 06:00, Krause thông báo tới Bộ chỉ huy Sư đoàn rằng tiểu đoàn của ông đã kiểm soát được toàn bộ thị trấn.[13]

Bãi Thả quân T (DZ T)

Các Serial C-47, trên đường tiến vào DZ T, đã vấp phải hỏa lực phòng không của quân Đức tại Bán đảo Cotentin. Dù các loạt bắn này không gây ra nhiều thiệt hại cho C-47, nhưng đã khiến các phi công bị hoang mang, gây mất phương hướng và nhiều máy bay bị lệch đội hình. Cuộc đổ bộ của Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 507 tại DZ T có kết quả tệ nhất trong toàn bộ cuộc đổ bộ của các trung đoàn nhảy dù Mỹ vào Normandie trong ngày 5-6 tháng 6, chỉ có 3 Stick được thả đúng DZ, các Stick còn lại bị thả một cách lộn xộn và rải rác, một số bị thả vào khu vực bị làm ngập nước và đầm lầy xung quanh sông Merderet và hơn 180 lính dù được thả vào khu vực gần Graignes, cách DZ của họ hơn 20 km.[16]

Chuẩn tướng James M. Gavin, phó chỉ huy Sư đoàn Không vận 82, đã hạ cánh tại khu vực cách Amfreville chưa đầy một km về phía đông bắc và Gavin di chuyển về hướng đông dọc theo một con đường sắt chạy từ bắc xuống nam băng qua đầm lầy Merderet. Cùng đi với ông là Đại tá Roy E. Lindquist (chỉ huy Trung đoàn 508), Trung tá Edwin J. Ostberg (chỉ huy Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 507) và một số lính dù khác. Đại tá George V. Milet, chỉ huy Trung đoàn 507, tập hợp được hơn 40 lính dù và bắt đầu tiến về phía nam Amfreville. và chiếm giữ nó. Do vấp phải sự chống trả của lực lượng phòng thủ của quân Đức đóng tại Les Landes, trong khi trang bị của lính dù Mỹ hạn chế, Đại tá Milet đã cho rút lui về phía tây Les Landes khoảng vài trăm mét.[17]

Thi thể của một lính dù Mỹ thuộc Sư đoàn Không vận 82 tại một khu ngập nước ở Normandie

Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 507 bị thả rải rác vào các khu vực đầm trũng xung quanh sông Merderet, nhiều lính dù bị chết đuối vì bị trang bị và dù dìm xuống nước, nhiều lính dù bị lính Đức bắn chết hoặc bị bắt làm tù binh khi đang cố gắng thoát ra khỏi đầm lầy.[16][18] Tuy nhiên, Trung tá Edwin J. Ostberg, chỉ huy Tiểu đoàn 1, cùng với khoảng 150 lính dù đã tiến về La Fière ở phía nam dọc theo một con đường sắt một cách an toàn, nơi được Đại đội A của Trung đoàn 505 trấn giữ. Họ hội quân cùng Đại đội A và tăng cường tuyến phòng thủ từ phía đông của đường đắp cao tới một cây cầu bắc qua Merderet. Trung tá Charles Timmes, chỉ huy Tiểu đoàn 2, chỉ tập hợp được 30 lính dù sau khi đổ bộ. Ông cùng nhóm này tiến về Amfreville và tấn công ngôi làng này từ phía đông, nhưng vấp phải một lực lượng lớn quân Đức đóng ở đó, khiến họ phải rút lui. Timmes cho quân của ông rút theo phía đông bắc và thiết lập tuyến phòng thủ xung quanh Motey trong đêm.

Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 507, chỉ huy bởi Trung tá Arthur A. Maloney, gặp phải vấn đề nan giải. 20 Stick (khoảng 150 lính dù) thuộc tiểu đoàn của ông đã bị thả nhầm xuống Graignes, phía nam Carentan, ngay sau 2 giờ sáng. Hoàn toàn bị lạc và bị cô lập với phần còn lại của trung đoàn, những người lính dù này, sau khi chờ đến bình minh để xác định vị trí của mình, đã quyết định ở lại Graignes để chờ quân tiếp viện đến.[16]

Tính đến sáng ngày 6 tháng 6 năm 1944, Trung đoàn 507 bị phân tán nặng nề và các đơn vị tập trung lẻ tẻ tại các vị trí khác nhau, bao gồm ở phía tây Landes, phía đông Amfreville, xung quanh khu vực đầm trũng cạnh sông Merderet, ở La Fière và 181 lính dù bị cô lập tại Graignes. Khoảng 30 Stick được thả xuống khu vực của Sư đoàn Không vận 101 và họ phải chiến tạm thời cùng với lính dù của sư đoàn 101 trong những giờ đầu của Ngày D. Sự hỗn loạn trong buổi sáng Ngày D đã khiến Trung đoàn 507 không thể hoàn thành nhiệm vụ kiểm soát các hướng tiếp cận từ hướng tây bắc trên đường La Fière.

Bãi Thả quân N (DZ N)

Dù chiếc C-47 Dakota dẫn đầu đoàn bay có hướng bay chính xác về DZ N, nhưng những chiếc C-47 phía sau đã không đi theo nó, phần lớn do hỏa lực phòng không của quân Đức đã khiến đội hình máy bay Mỹ bị rối loạn. Cuộc đổ bộ được thực hiện từ 02:08 tới 02:20 ở độ cao hơn 700 m do sự hỗn loạn của các phi công máy bay, trong khi Sư đoàn Không vận 101 được thả ở độ cao 150 m. Chỉ có 33 trong tổng số 132 Stick của Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 508 được thả vào các khu vực cách DZ chưa đến một km. Hơn 65 Stick (chiếm hơn nửa quân số trung đoàn) được thả cách DZ hơn 15 km, bị cô lập và lạc trong đêm, và khiến họ không thể hoàn thành được nhiệm vụ.[17]

Đại úy Kenneth L. Johnson, Sĩ quan Tình báo của Trung đoàn 508, đang dò hỏi thông tin từ quân Kháng chiến Pháp tại Saint-Marcouf

Do có nhiều lính dù bị lạc và thả sai vị trí, cả ba tiểu đoàn của Trung đoàn 508 đều không đủ quân số để tiến hành nhiệm vụ. Trung đoàn sau đó được chia thành bốn nhóm lớn: Nhóm L được chỉ huy bởi Đại tá Roy Lindquist (chỉ huy Trung đoàn 508), Nhóm W được chỉ huy bởi Thiếu tá Shields Warren (phó chỉ huy Tiểu đoàn 1), Nhóm S được chỉ huy bởi Trung tá Thomas J.B. Shanley (chỉ huy Tiểu đoàn 2) và Nhóm G do hai Đại úy Frank J. Novak (chỉ huy Đại đội G, Tiểu đoàn 3) và George B. Simonds (sĩ quan Điều hành Chiến dịch - S3, Tiểu đoàn 2) dẫn đầu. Các nhóm bao gồm những người lính dù bị lạc đơn vị và được gặp ngẫu nhiên trong lúc di chuyển và có quy mô từ khoảng 30 đến gần 200 người.

Nhóm L di chuyển về Pont-l’Abbé, mục tiêu ban đầu của Trung đoàn 508, nhưng bị chặn lại suốt đêm bởi quân Đức đóng tại con đường đi qua đầm lầy sông Merderet. Nhóm W di chuyển về phía nam DZ N và chiếm giữ các cao điểm ở phia nam Gueutteville, mục tiêu ban đầu của Tiểu đoàn 1, bố trí các vị trí phòng thủ cho đến bình minh và đánh bật nhiều đợt phản công của quân Đức. Nhóm W tiến về phía nam Gueutteville và chiếm Đồi 30. Nhóm G được giao nhiệm vụ đánh chiếm một cây cầu bắc qua sông Merderet, nằm ở phía tây nam Chef-du-Pont và thiết lập một tuyến phòng thủ ở đó.

Ngày D của Trung đoàn 508 bắt đầu có những tiến triển đầu tiên khi một nhóm sáu người, bao gồm bốn lính dù, được chỉ huy bởi Trung úy Malcom D. Brannen (Đại đội HQ, Tiểu đoàn 3) và Trung úy Harold V. Richard (Đại đội A, Tiểu đoàn 1) và hai lính công binh, khi đang dò hỏi người dân sống ở La Minoterie, cách Pont-l’Abbé hai km về phía đông bắc lúc 03:30, thì nghe thấy một tiếng xe hơi ở gần chỗ họ. Trung úy Malcom D. Brannen hét lớn và ra lệnh dừng xe nhưng chiếc xe không dừng lại. Nhóm lính dù nổ súng vào chiếc xe và khiến chiếc xe đâm vào tường. Vụ nổ súng khiến Trung tướng Wilhelm Falley, chỉ huy Sư đoàn Bộ binh 91, cùng Thiếu tá Joachim Bartuzat tử nạn. Người tài xế bị thương nặng nhưng sống sót và bị bắt làm tù binh.[19][20] Wilhelm Falley là tướng Đức đầu tiên tử trận trong Ngày D và cũng là một trong những vị tướng cấp cao nhất tử trận trong Chiến dịch Overlord. Vào thời điểm Falley bị giết, ông đang trên đường quay trở về Sở chỉ huy Sư đoàn tại Chateau de Bernaville, Picauville sau khi tham gia một buổi chơi đánh trận giả tổ chức tại Bộ Tư lệnh Tối cao Đức ở Rennes.

Bất chấp những nỗ lực của Trung đoàn 508, phòng tuyến của họ vẫn còn nhiều sơ hở. Lợi dụng điều đó, quân Đức nhanh chóng tổ chức phản công vào Cauquigny để chiếm lại cầu La Fière trong buổi sáng ngày 6 tháng 6.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhiệm vụ Boston http://www.6juin1944.com/assaut/aeropus/en_9tcc.ph... http://www.6juin1944.com/veterans/brannen.php http://www.history.army.mil/books/wwii/7-4/7-4_8.h... http://www.history.army.mil/books/wwii/7-4/7-4_Con... http://www.history.army.mil/html/books/007/7-4-1/C... http://amcmuseum.org/history/troop-carrier-d-day-f... http://www.americandday.org http://www.b-26marauderarchive.org/MS/MS1741/MS174... //www.worldcat.org/oclc/606012173 http://www.ww2-airborne.us/